Nhắc đến chỉ số glucose trong máu người, chúng ta sẽ không thể bỏ qua vai trò điều hòa của gan. Về mặt sinh lý, gan đảm nhiệm rất nhiều vai trò quan trọng, trong đó đặc biệt nhất là điều hòa và chuyển hóa các chất dinh dưỡng (như glucose, lipid hay protein). Một số chức năng của gan là độc nhất mà không một cơ quan nào có thể thay thế được. Nếu gan của một người bị tổn thương và hư hỏng hoàn toàn, người đó sẽ tử vong trong vòng 24 giờ do hạ đường huyết và điều này cho thấy vai trò của gan trong kiểm soát mức glucose trong máu.
Quá trình chuyển hóa glucose ở gan diễn ra rất phức tạp và phong phú, trong đó hầu hết sẽ diễn ra trong các tế bào gan. Theo các chuyên gia, gan là một nơi lưu trữ glucose của cơ thể dưới dạng Glycogen.
Thông thường, sau bữa ăn hay uống nước đường, mức glucose trong máu sẽ tăng cao do tế bào ruột hấp thu và chuyển về gan một cách ồ ạt thông qua tĩnh mạch cửa. Gan sẽ giữ glucose lại, sử dụng một phần để tạo năng lượng cho các hoạt động của gan trong khi phần lớn sẽ trải qua các phản ứng chuyển hóa (xúc tác bởi các enzyme hoạt động mạnh) thành glycogen (bởi glycogen mới là chất có thể dự trữ).
Ngoài đường glucose, gan còn tổng hợp glycogen từ nhiều loại đường khác như galactose, mannose, fructose… nhờ hệ thống enzyme đặc biệt mà không cơ quan nào khác trong cơ thể có thể làm được. Đặc biệt gan có thể tổng hợp ra sản phẩm trung gian của quá trình chuyển hóa như lactat, acetyl CoA, pyruvat… thành glycogen đặc hiệu.
Ở chiều hướng ngược lại, khi chỉ số glucose trong máu hạ thấp, gan sẽ tiến hành phân hủy glycogen để tái tạo glucose và đưa vào máu nhằm cung cấp cho các tế bào sử dụng. Khi đó, mức glucose trong máu người bệnh sẽ được điều hòa để trở về bình thường. Mặc dù nhiều cơ quan trong cơ thể cũng dự trữ glycogen nhưng chúng không thể tái tạo để cung cấp glucose cho máu như gan bởi không có enzym chuyển hóa.
Tóm lại, gan là cơ quan có vai trò quan trọng trong việc điều hòa glucose trong máu người và gần như độc nhất.
Ngoài điều hòa và chuyển hóa glucose, gan còn tham gia chuyển hóa nhiều chất dinh dưỡng khác, trong đó có lipid. Gan có chức năng phân hủy lipid và tạo ra acetyl CoA, đây chính là nguyên liệu quan trọng cho chu trình Krebs của cơ thể. Một phần nhỏ acetyl CoA sau khi tạo ra sẽ đi vào chu trình Krebs để cung cấp năng lượng cho gan hoạt động, một nhỏ khác sẽ được gan sử dụng để tổng hợp Cholesterol, acid mật, trong khi phần nhiều sẽ được chuyển hóa thành thể ceton. Chính thể ceton sẽ được vận chuyển đến các cơ quan khác sử dụng thông qua phản ứng chuyển đổi từ thể ceton sang acetyl CoA.
Quá trình tổng hợp lipid tại gan cũng mang đến nhiều ý nghĩa cho cơ thể. Lipid (hay mỡ) được hấp thu vào cơ thể ở dạng cấu tạo nhỏ như acid béo, glycerol hay các hạt mỡ nhũ tương hóa. Chỉ một phần nhỏ được tái tổng hợp thành lipid tại tế bào ruột, trong khi phần lớn được vận chuyển về gan.
Tại đây, chúng sẽ được tế bào gan tổng hợp thành các lipid trung tính, cholesterol và bao gồm cả phospholipid (đây là phân tử lipid có cực với vai trò cấu tạo nên các lipoprotein huyết thanh). Thông qua đó, gan sẽ vận chuyển các lipid trung tính và cholesterol ra khỏi gan để tránh hiện tượng ứ đọng lại quá nhiều.
Protein tồn tại trong huyết tương chủ yếu dưới 2 dạng là albumin và globulin. Trong đó, gan sản xuất toàn bộ lượng albumin của cơ thể và chỉ sản xuất một lượng nhỏ globulin. Khi chức năng gan suy giảm, tỷ lệ Albumin/Globulin sẽ bị thay đổi cùng với các triệu chứng rối loạn chức năng đông máu. Một công dụng khác của gan là thoái hóa các acid amin thông qua hệ thống enzyme đặc biệt, cụ thể là các transaminase như AST và ALT.
Theo các chuyên gia, gan cũng là nơi duy nhất trong cơ thể có khả năng khử độc NH3 bằng cách tổng hợp chúng thành Ure. Đây được xem là một chất độc nội sinh hình thành từ quá trình thoái hóa acid amin.
Gan là đóng vai trò quan trọng không thể thay thế trong quá trình bài tiết các chất có nguồn gốc nội bào và ngoại bào như Hem hay Bilirubin thông qua nước tiểu và dịch mật. Theo bác sĩ, mật được gan sản xuất liên tục, mỗi ngày một người trưởng thành có thể tạo ra 3 lít dịch mật, sau quá trình cô đọng còn 1 lít dịch mật bài tiết theo đường tiêu hóa.
Trong quá trình chuyển hóa, cơ thể luôn tạo ra các chất độc nội sinh, bản chất là các sản phẩm trung gian của các quá trình chuyển hóa, và cả các chất độc ngoại sinh xâm nhập theo đường ăn uống. Các chất độc này đều được gan khử độc theo các cơ chế phù hợp với bản chất của từng loại chất độc cụ thể, thông qua 2 cơ chế là cố định thải trừ và cơ chế hóa học:
Hy vọng qua thông tin bài viết trên, bạn đã hiểu rõ hơn về việc gan có vai trò gì trong điều hòa glucose máu để có cách chăm sóc và bảo vệ gan hiệu quả.