Tình trạng béo phì đang là một vấn nạn y tế trên toàn cầu, nhất là ở những nước có nền kinh tế phát triển. Theo thống kê, có khoảng 1/3 người Mỹ trên độ tuổi 20 tuổi đang ở trong tình trạng béo phì. Thậm chí tỷ lệ béo phì tại châu Á cũng đang tăng rất nhanh do vấn đề thu nhập và đô thị hóa ngày càng tăng. Vậy tiêu chuẩn béo phì châu Á như thế nào?
1.Chỉ số BMI là gì?
Tiêu chuẩn BMI béo phì của những nước là khác nhau, nên cách tính chỉ số BMI béo phì châu Á cũng sẽ có kết quả khác. Chỉ số BMI là chỉ số để đo khối lượng cơ thể (Body Mass Index). Dựa vào chỉ số BMI và chỉ số BMR (Tỷ lệ trao đổi chất cơ bản) của một người có thể sẽ biết được người đó béo, hay gầy hoặc có cân nặng lý tưởng.
Chỉ số này đã được đề ra lần đầu tiên vào năm 1832 bởi một nhà khoa học đến từ nước Bỉ. BMI đã được coi là một công cụ để mỗi người có thể dựa vào và xem xét về thể trạng mình đã là cân đối chưa, hay là bị thừa cân, béo phì. Từ đó sẽ xây dựng kế hoạch ăn uống, tập luyện để có được một vóc dáng cân đối, hợp lý.
Kinh nghiệm giảm cân cùng với công thức chỉ số BMI này chỉ áp dụng cho người trưởng thành (trên 18 tuổi) và không áp dụng cho các trường hợp như trẻ em ở độ tuổi dưới 18, các vận động viên thể dục thể thao, người có khiếm khuyết trên cơ thể, người già, phụ nữ đang mang thai hoặc là mới sinh em bé.
2. Tiêu chuẩn để chẩn đoán béo phì cho người châu Á
Ở châu Á, một số các nhà nghiên cứu đã phàn nàn rằng, tiêu chuẩn BMI ≥ 30 kg/m2 sẽ không thích hợp để chẩn đoán tình trạng BMI béo phì châu Á. Lý do mà họ đưa ra là so với những người Âu Mỹ thì những người châu Á hay có lượng mỡ nhiều hơn họ. Vào năm 1994, đã có một nghiên cứu của New York (Mỹ) họ cho thấy rằng nếu như hai người phụ nữ châu Á và Mỹ có cùng chỉ số BMI thì người châu Á có tỉ lệ mỡ cao hơn người Mỹ khoảng 1 đến 3%. Các nghiên cứu trên đã có ảnh hưởng rất lớn đến quan điểm y khoa về tiêu chuẩn béo phì châu Á. Các chuyên gia đã dựa vào những kết quả nghiên cứu đó đề nghị tiêu chuẩn BMI châu Á chẩn đoán nên thấp hơn người Âu Mỹ. Cụ thể là họ đã đề nghị người châu Á có BMI bằng hoặc là cao hơn 25 kg/m2 (chứ không phải là 30 kg/m2) nên chẩn đoán là béo phì. Ngay cả Tổ chức Y tế Thế giới cũng đã miễn cưỡng chấp nhận đề nghị này.
Nếu như dựa vào tiêu chuẩn là 25 kg/m2 thì sẽ có khoảng 25 đến 30% người dân ở TPHCM là bị “béo phì”. Nói cách khác thì dựa vào tiêu chuẩn BMI châu Á này (BMI bằng hoặc là cao hơn 25 kg/m2) thì số người “béo phì” ở TPHCM gần bằng hoặc là tương đương với tỷ lệ những người béo phì ở Mỹ!
Những phân tích ở trên đây còn gián tiếp cho thấy rằng, không thể dựa vào chỉ số BMI để có thể chẩn đoán BMI béo phì châu Á như ở giới y tế họ thường dựa vào bấy lâu nay. Việc chẩn đoán béo phì chỉ nên dựa vào tiêu chuẩn vàng, tức là sẽ dựa vào tỉ lệ của chất béo và sẽ đo bằng máy DXA mới chính xác nhất. Tiêu chuẩn tỉ lệ của chất béo >35 cho nữ giới, và >25% cho nam giới không phân biệt sắc dân. Nhưng ở trong điều kiện nếu như không có máy DXA thì phải làm sao?
Để có thể khắc phục được vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã bỏ ra rất nhiều năm để làm thử nghiệm và phát triển ra một phép tính tỉ lệ của chất béo khá là chính xác. Phép tính này, hay nói đúng hơn là một phương trình do Gallagher và các đồng nghiệp của ông phát triển chỉ dựa vào 2 con số về độ tuổi và chỉ số BMI. Theo như phương trình này, thì tỉ lệ của chất béo cho những người châu Á có thể ước tính như sau:
Đối với phụ nữ: tỉ lệ của chất béo = 63,7 – 735/BMI + 0,029*Age
Đối với đàn ông: tỉ lệ của chất béo = 51,6 – 735/BMI + 0,029*Age
Dấu “*” có nghĩa là “nhân cho” và (dấu “/” có nghĩa là “chia cho”.
Chẳng hạn như ở một phụ nữ châu Á độ tuổi 50 và có chiều cao là 1,5 m, và cân nặng 60 kg (tức là BMI = 60 / 1,52 = 26,7), tỉ lệ chất béo ở trong cơ thể có thể ước tính như sau: tỉ lệ của chất béo = 63,7 – 735/26,7 + 0,029*50 = 37,6). Như vậy, theo BMI tiêu chuẩn châu Á có thể nói rằng phụ nữ này hiện đang trong tình trạng bị béo phì.
Phương trình này còn có khả năng ước tính tỷ lệ chất béo rất chính xác cho một dân số. Ở trong một nhóm khoảng 832 người Thái Lan, một so sánh giữa tỉ lệ của chất béo đo bằng máy DXA và tỉ lệ của chất béo ước tính bằng hai phương trình trên đây. Kết quả đã cho thấy rằng, giá trị trung bình tỉ lệ của chất béo của máy DXA sẽ là 27,9%, và do ước tính bằng phương trình sẽ là 28,0%, tức là mức độ sai số trung bình chỉ là khoảng 0,1%. Hệ số tương quan giữa tỉ lệ của chất béo đo bằng máy DXA và tỉ lệ của chất béo ước tính bằng hai phương trình trên là 0,88. Ở trong một nhóm phụ nữ người Trung Quốc (n = 205), tỉ lệ của chất béo trung bình sẽ đo bằng DXA là 30,2%, và ước tính bằng công thức Gallagher sẽ là 29,5%, sai số chỉ khoảng 0,7%, hệ số tương quan ở trong nhóm này là 0,89.
Nói tóm lại, có thể dùng công thức Gallagher để có thể ước tính được tỷ lệ chất béo trong cơ thể người châu Á khá là chính xác trong khi chưa hề có máy DXA.
Xin nhắc lại là theo “tiêu chuẩn vàng”, tỉ lệ của chất béo ở trong đàn ông sẽ cao hơn 25% thì những người đó được chẩn đoán là bị bệnh béo phì. Còn với phụ nữ, nếu như tỉ lệ của chất béo cao hơn 35% cũng sẽ được xem là béo phì. Bây giờ, có thể tính đảo ngược để trả lời cho câu hỏi “chỉ số BMI tối thiểu là bao nhiêu để có thể nói với một người đàn ông có tỉ lệ của chất béo > 25% và ở một phụ nữ có tỉ lệ của chất béo > 35%? Nếu vậy, tiêu chuẩn 25 và 35 vào hai phương trình trên, thì câu trả lời cho câu hỏi trên sẽ là hai bất phương trình đảo:
Đối với phụ nữ: BMI > 735 / (28.7 + 0,029*Age)
Đối với đàn ông: BMI > 735 / (26.6 + 0,029*Age)
Như vậy, một phụ nữ Việt Nam ở độ tuổi 25, cùng với BMI là 25,1 kg/m2 (tức là chiều cao 1,62 và trọng lượng khoảng 65kg) có thể được xem là béo phì, vì theo BMI tiêu chuẩn châu Á thì tỷ lệ chất béo ở trong cơ thể phụ nữ được ước tính trên là 35%. Tương tự, ở một người đàn ông tuổi 30 và BMI của họ trên 26,8 (tức chiều cao 1,65 m và trọng lượng cơ thể là 73kg) có thể được xem là bệnh béo phì, vì tỉ lệ của chất béo cao hơn 25%. Những chỉ số BMI này cũng sẽ rất phù hợp với những nghiên cứu từ những nước khác như: Hồng Kông, Trung Quốc, và Đài Loan.
Tất nhiên, các cách tính toán trình bày ở trên đây sẽ không thể thay thế DXA được, vì nó sẽ vẫn còn một số sai sót nhỏ, do vậy một số chẩn đoán BMI tiêu chuẩn châu Á sẽ không hoàn toàn chính xác được. Tuy nhiên, lợi thế đáng kể của cách tính trên đây rất đơn giản và bất cứ ai cũng có thể làm được. Chỉ cần biết trọng lượng, chiều cao và độ tuổi (tức là các thông tin ai cũng có thể biết rõ ràng để tính ra BMI béo phì châu Á) chúng ta có thể sẽ ước đoán tỉ lệ chất béo ở trong cơ thể khá chính xác và biết mình có phải bị béo phì hay không?
Do vậy, trong khi chưa có máy DXA để đo lượng béo ở trong cơ thể và qua các kinh nghiệm thực tế thì các tiêu chuẩn trình bày ở trên sẽ rất có ích trong việc xác định tiêu chuẩn BMI châu Á và giúp chẩn đoán tình trạng béo phì ở người châu Á.
Hiện nay, đa số những quốc gia ở trên thế giới đều phải đối mặt với một thực trạng đáng báo động chính là tỷ số người bị béo phì tăng quá nhanh, trong đó có cả người Việt Nam. Chính vì vậy, muốn duy trì kết quả an toàn với cách tính chỉ số BMI tiêu chuẩn châu Á, các bạn nên thực hiện việc sinh hoạt khoa học, chế độ ăn uống đầy đủ với các chất dinh dưỡng kết hợp việc luyện tập hợp lý. Để quản trị cân nặng hiệu quả bạn cũng có thể sử dụng cácthực phẩm chức năngcó chứa thành phần hoạt chất quý như: Glabridin chiết xuất linh thảo, L-Carnitine, Piperine, Coenzyme Q10, ALA (Alpha Lipoic Acid) chiết xuất rau bina…. để giúp tăng vận chuyển glucose vào cơ, khống chế cảm giác đói và giảm tích trữ glucose,… Đồng thời tăng phân giải chất béo, ngăn mỡ tích tụ ở nội tạng, nhờ đó hỗ trợ giảm cân, giảm mỡ hiệu quả và bền vững.